- Bộ Công Thương cho rằng năng lực cạnh tranh ngành thép khá thấp, bởi phần lớn nguyên liệu đầu vào sản xuất đều phải nhập khẩu.
- Ngành công nghiệp thép đã có sự phát triển nhanh trong 5 năm trở lại đây nhưng mất cân đối giữa phát triển thượng nguồn và hạ nguồn.
- Tổng nhu cầu thị trường các ngành chế tạo của Việt Nam giai đoạn đến 2030 có thể đạt 310 tỷ USD.Bộ Công Thương cho rằng cần chính sách đặc thù để phát triển ngành thép ổn định và bền vững.
Bộ Công Thương vừa có văn bản đề xuất xây dựng “Chiến lược phát triển ngành thép Việt Nam đến 2030, tầm nhìn đến 2050” gửi Thủ tướng. Cơ quan này cho rằng cần có chính sách đặc thù để giúp phát triển hơn nữa ngành thép.
Nguyên liệu sản xuất thép phụ thuộc nguồn nhập khẩu
Báo cáo của Bộ Công Thương cho biết tính đến 2021, năng lực sản xuất phôi thép là 27 triệu tấn/năm, trong đó thép cuộn cán nóng (HRC) là 7-8 triệu tấn/năm.
Năm vừa qua, sản lượng thép HRC đạt 7-8 triệu tấn, theo Bộ Công Thương. Ảnh: TTXVN
Ngoài một số nhà máy xây dựng mới với công suất lớn như khu liên hợp gang thép Hòa Phát Dung Quất, khu liên hợp gang thép Hưng Nghiệp Formosa, thép Nghi Sơn, các nhà máy sản xuất phôi thép còn lại chủ yếu có công suất nhỏ và thiết bị lạc hậu.
Năng lực sản xuất thép còn nhiều hạn chế, hiện nay chủ yếu là các sản phẩm chưa thể cung cấp đủ nhu cầu thép cho toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể, năng lực sản xuất thép xây dựng là 14 triệu tấn, đảm bảo 100% nhu cầu tiêu dùng trong nước và một phần xuất khẩu. Trong khi đó, thép phục vụ ngành cơ khí, chế tạo, Việt Nam đã sản xuất và đáp ứng một phần thép HRC, tương đương sản lượng khoảng 8 triệu tấn nhưng lượng nhập khẩu là 10 triệu tấn. Dự kiến, nhu cầu sản xuất, chế biến, chế tạo, thép hình xây dựng sẽ tăng. Đặc biệt, các loại thép hợp kim, Việt Nam chưa sản xuất được các loại thép đặc biệt này.
Năng lực cạnh tranh của ngành thép Việt Nam được Bộ Công Thương nhìn nhận là khá thấp khi phần lớn các nguyên liệu đầu vào để sản xuất đều phải nhập khẩu. Bên cạnh đó, nhà máy có công suất nhỏ, thiết bị lạc hậu, tiêu tốn năng lượng và nguy cơ về môi trường vẫn tồn tại.
“Ngành thép của Việt Nam cơ bản phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu nước ngoài như quặng sắt, thép phế liệu, than mỡ luyện cốc, điện cực graphite… nên khi giá các nguyên liệu đầu vào biến động sẽ làm giá thép thành phẩm trong nước cũng phải điều chỉnh theo thị trường thế giới”, văn bản của Bộ Công Thương cho biết.
Dự kiến trong năm 2022, Việt Nam phải nhập khẩu nhiều loại nguyên liệu để sản xuất thép như quặng sắt cho các lò cao khoảng hơn 18 triệu tấn, thép phế khoảng 6-6,5 triệu tấn cho các lò điện, than mỡ luyện cốc khoảng 6,5 triệu tấn và điện cực graphite khoảng 10.000 tấn… với dự báo giá quặng sắt, thép phế, quặng nguyên liệu thô và than mỡ luyện cốc… vẫn duy trì ở mức cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất thép và thị trường thép trong nước.
Nhìn nhận quá trình phát triển gần đây, theo Bộ Công Thương, trong giai đoạn 2016-2021, ngành công nghiệp thép đã có sự phát triển nhanh nhưng mất cân đối giữa phát triển thượng nguồn và hạ nguồn. Các sản phẩm sau thép như tôn mạ kẽm, thép ống tăng trưởng tốt về giá trị sản xuất và xuất khẩu.
Trong khi đó, các chủng loại thép hợp kim, đặc biệt là HRC – nguyên liệu đầu vào cần thiết cho nhiều ngành như sản xuất thép cán nguội (CRC), tôn mạ, ống thép, đóng tàu, cơ khí chế tạo có nhu cầu lớn, song năng lực sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu nên dẫn đến tiếp tục phải nhập khẩu với số lượng lớn.
Về lâu dài, để đảm bảo nhu cầu HRC và các loại thép hợp kim, thép chất lượng cao trong nước cần tiếp tục thu hút và đầu tư một số nhà máy liên hợp sản xuất thép lớn để phục vụ nhu cầu nội địa, giảm dần sự phụ thuộc vào thép nhập khẩu.
Cần đầu tư thêm các dự án sản xuất HRC quy mô lớn
Theo Bộ Công Thương, công nghiệp hoá trước hết được xác định bởi sự phát triển nhanh và bền vững của các ngành công nghiệp nền tảng, đặc biệt là các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Ngành thép cung cấp nguyên vật liệu đầu vào quan trọng nhất cho các ngành sản xuất, chế tạo, đặc biệt là các ngành như cơ khí, công nghiệp đóng tàu, sản xuất ôtô xe máy, sản xuất đồ gia dụng, công nghiệp quốc phòng, công nghiệp khai khoáng, công nghiệp điện…
Vì thế, tự chủ về sản xuất thép trong nước là yêu cầu tất yếu của việc tự chủ nguồn nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng của người dân, cũng như quá trình đô thị hoá, hiện đại hoá cơ sở vật chất quốc gia.
Dự báo sơ bộ cho rằng tổng nhu cầu thị trường các ngành chế tạo của Việt Nam giai đoạn đến 2030 có thể đạt tới 310 tỷ USD, trong đó nhu cầu thị trường từ cơ khí phục vụ công trình công nghiệp là 120 tỷ USD; cơ khí xây dựng, nông nghiệp, chế biến là 15 tỷ USD; giao thông đường sắt là 35 tỷ USD, tàu điện ngầm là 10 tỷ USD và ôtô là 120 tỷ USD.
Đây sẽ là thị trường rất lớn cho ngành thép trong nước, đặc biệt là thép chế tạo, hợp kim chất lượng cao.
Khẳng định ngành thép có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, song báo cáo nêu rõ tại thời điểm hiện tại không có chính sách đặc thù, riêng biệt để thúc đẩy, cũng như định hướng để phát triển ngành thép.
Sau khi quy hoạch ngành thép bãi bỏ theo quy định của Luật Quy hoạch năm 2017 và việc kiểm soát giá cũng được đưa ra khỏi danh mục hàng hóa kiểm soát theo quy định của Luật Giá năm 2012, Nhà nước không còn công cụ quản lý đối với ngành, không quản lý được năng lực sản xuất, cân đối cung – cầu sản phẩm ngành thép trong nước để cung cấp nguyên liệu, thúc đẩy các ngành công nghiệp mũi nhọn cũng như đảm bảo phát triển cơ sở hạ tầng theo hướng hiện đại hóa.
Để ngành thép phát triển bền vững và ổn định cần xây dựng chính sách đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp thép tạo nền tảng cơ bản cho công nghiệp hóa theo hướng hiện đại và bền vững.
Bộ Công Thương vạch ra hướng phát triển chi tiết hơn như để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Việt Nam cần có các định hướng chính sách để phát triển mạnh ngành luyện kim, vật liệu, đặc biệt là các loại thép chế biến chế tạo.
Trước tiên, trong giai đoạn tới, các dự án đầu tư sản xuất HRC quy mô lớn cần phải được tập trung đầu tư. Bởi đây là loại thép chiến tỷ trọng lớn trong ngành chế biến chế tạo.
Tiếp nữa, với thép hợp kim và đặc biệt phục vụ ngành cơ khí, Việt Nam cần xây dựng các tổ hợp luyện kim có quy mô lớn, trong đó tập trung vào sản xuất các loại thép chế biến chế tạo có trình độ công nghệ, có dung lượng thị trường lớn, bước đầu làm chủ công nghệ sản xuất các loại thép chế biến chế tạo cơ bản.
Ngoài ra, Bộ Công Thương cũng đề cập tới việc Nhà nước nên có các chính sách ưu đãi về đất đai, hạ tầng, về khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực để khuyến khích, thúc đẩy các dự án thép phát triển nhằm hình thành phát triển mạnh ngành luyện kim, đáp ứng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nguồn NDH